HỌC TRÒ VÀ THẦY
Truyên
ngắn: Lê Bá Hạnh
Hội người cao
tuổi tổ chức tham quan mỏ than Đông Bắc. đương nhiên tôi được cử làm hướng dẫn
viên du lịch, vì nhiều năm đã ở đấy. Lần này nhất định phải tìm bằng được người
thầy, tôi đã mang ơn sâu nặng…
Ngày xưa quê tôi
nghèo lắm, muốn học lớp trên, phải lên tỉnh thuê nhà trọ, điều này vượt quá khả
năng kinh tế gia đình. Theo bạn mách
bảo, lần đầu tôi ra khu mỏ tìm việc. Rời bến Tam Bạc, chiếc tàu gỗ ì ạch chạy
nửa ngày, bọn trẻ chúng tôi chiếm hết khoang mũi đánh bài “tiến lên” và tán
gẫu…
Trời dâm mát,
sóng yên biển lặng ai cũng vui vẻ hồ hởi bắt chuyện, vài giờ đầu đã biết nhau
gần hết như người cùng làng. Một thanh niên hơn tôi bảy tám tuổi lúc nào cũng
ôm khư khư chiếc cặp, thỉnh thoảng lại giơ tay xem đồng hồ, chắc có người đang
chờ anh cuối bến. Dư thời gian bầy mọi trò tinh nghịch, đến trò chơi tính nhẩm,
tôi mới vượt trội, lúc nào cũng có đáp số nhanh và chính xác, có chàng đặt bút
viết số nhân lên vẫn không kịp. Anh thanh niên lớn tuổi tò mò hỏi, tôi đành nói
thật: “Học mẹ em làm “hàng xáo” vẫn bán gạo lẻ ở chợ, làm tròn số rồi trừ đi
hoặc cộng vào. Như nhân một số với chín, ta nhân với mười rồi trừ đi chính nó…”
Không ngờ chuyến
tàu định mệnh ấy, câu chuyện nhỏ nhặt ấy anh nhìn tôi thiện cảm và được gắn bó
với anh một thời gian khá dài. Anh là kĩ sư chế tạo máy – thầy giáo dạy ở
trường Kĩ thuật Trung cấp Mỏ…
Khi biết hoàn
cảnh và nguyện vọng của tôi, anh động viên vào học lớp dự bị cùng bộ đội phục
viên có học bổng. Một năm sau sẽ được vào học chính thức. Ba năm học chuyên
môn, tốt nghiệp sẽ được về hầm mỏ làm cán bộ kĩ thuật, những năm sau cứ tiếp
tục bổ túc văn hóa buổi tối học hết chương trình 10/10, cộng với thâm liên làm
việc ở công trường là đủ điều kiện thi vào Đại học tại chức - chẳng bao lâu
hoàn chỉnh việc học…
Anh
như người anh cả, bây giờ lại là người thầy trực tiếp dạy tôi hàng ngày trên
lớp. Tôi vui sướng đến trào nước mắt vì được ngồi vào ghế nhà trường tiếp tục
học. Như thửa ruộng nắng hạn nứt nẻ giờ được cơn mưa kiến thức đổ xuống tôi
thỏa thuê tiếp nhận. Và tôi thầm cám ơn người anh cả đã vạch ra con đường mà
tôi đang đi đúng hướng.
Học
xong ra trường, tôi được về làm việc tại nhà máy cơ khí. Mấy năm sau người anh
cả, người thầy của tôi cũng được điều về nhà máy nhận chức trưởng phòng Kĩ
Thuật, buổi tối dạy bổ túc văn hóa, tôi lại được thày trực tiếp dạy. Phương
pháp sư phạm của thầy phải công nhận vừa khoa học vừa hấp dẫn. Hầu hết các bài
tôi đều thuộc ngay ở lớp.Về nhà chỉ củng cố thêm bằng những bài tập…
Mấy năm sau, tôi
được đi đại học tại chức. Thày dạy vẫn là những kĩ sư khóa chính quy nhiều thâm
niên công tác trực tiếp giảng dạy. Ngày đó lấy đâu ra những giáo sư, thạc sĩ về
dạy ở vùng mỏ xa xôi này. Học viên của thầy khóa này đa số là phó trưởng phòng,
chánh phó giám dốc, bí thư đảng ủy (xí nghiệp khác trong công ti) họ học theo
phong trào để đạt tiêu chuẩn phổ cập cấp
trên quy định. Trò cũng như thầy ngồi ở lớp mà đầu óc vẫn để nơi làm việc… Giờ
nghỉ giải lao họ trao đổi kế hoạch sản xuất như buổi họp giao ban…
Thời điểm đó,
hình như phương pháp sư phạm của thầy đã thay đổi. Thầy không khó chịu khi học
sinh đến muộn hoặc trao đổi việc riêng khi thầy đang giảng mà đồng cảm với họ
những khó khăn của sản xuất đã phân tán tư tưởng. Học trò muốn học thực sự chỉ
vài ba người.
Không
như mấy năm trước, thầy còn dạy lớp dưới, mấy cô cậu học lấy lệ, nô đùa cợt
nhả, thầy chỉ mặt nhắc tên không chuyển. Đến mức, giữa một tiết học mất trật tự,
thày dừng lại kể một giai thoại chả hiểu thầy đọc ở đâu hay mới nghĩ ra, chuyện
đại ý: “Ở phương Tây đã chế tạo được “viên kiến thức” uống thuốc đó vào không
cần phải học vẫn giỏi, nhưng bây giờ chúng ta chưa chế tạo được viên thuốc đó
nên phải lắng nghe bài giảng, làm bài tập và đi học đúng giờ…”
Giai
thoại đó làm tôi tự ái, tủi hận đến cực độ và cũng bắt tôi xả hết xương thịt
tâm trí của mình vào học hành, nhưng cả lớp thì coi đó là chuyện tầm phào như
cơn gió thoảng qua.
Cuối
khóa học, chúng tôi như vận động viên chạy việt dã đến kiệt sức. Các bài học cứ
được nhồi nhét đều đặn để mặc trôi từ tai này sang tai khác.
Thầy lo lắng,
chúng tôi như ngồi trong chảo lửa, dù đã hệ thống tóm tắt lại trọng tâm, nhớ
được vấn đề này ở sách gì, tra cứu ở chương mục nào…
Thầy
vẫn chưa yên tâm nên gián tiếp dạy chúng tôi vài kiểu sử dụng tài liệu trong phòng
thi (vì kì thi này có nhiều thầy trên Bộ, trên Công ti về giám sát) Thầy dạy:
“Bao thuốc lá Tam Đảo chỉ chứa những đáp án mà chưa thuộc, cuộn tròn lại như
điếu thuốc - những công thức dài dằng dặc thì lấy tờ giấy “vê đúp” trắng tinh
làm giấy nháp được mang theo, đặt tờ giấy khác đè lên trên, dùng bút chì cứng
viết thoải mái hàng loạt công thức nào mà muốn có… Nhìn nghiêng chẳng thấy tí
mực ghi con số hay chữ nghĩa gì, nhưng đặt thẳng bắt ánh sáng là cả một cuốn
sách cẩm nang kĩ thuật. Và hàng loạt kiểu khác nữa. Chúng tôi chuẩn bị buổi thi
như người lính bước vào trận đánh lớn. Nhưng tất cả đều vô ích vì phòng thi
được ra vào trao đổi vô tư, mở sách tài liệu ra chép bài thoải mái. Vì chẳng ai
muốn khóa học này kết quả kém để mất điểm thi đua nên chúng tôi đều đủ điểm tốt
nghiệp.
Sau
ngày thống nhất đất nước, cán bộ Miền Nam lần lượt được về tham gia xây
dựng quê hương. Cán bộ chủ chốt của nhà máy hụt đi một nửa. Và thầy giáo đáng
kính của tôi dù không muốn cũng phải ngồi vào ghế phó giám đốc rồi giám đốc -
Một nhà máy nằm trong Công ti Than, nhưng hạch toán kinh tế độc lập. Công tác
chuyên môn của thầy không còn thời gian dạy học vào buổi tối - Và nhiều lớp học
nữa mở ra để thi nâng bậc lương cho công nhân. Thiếu thầy dạy, tôi cũng được bổ
xung dạy thêm mỗi tuần vài tiết môn vẽ
kĩ thuật, tìm hình chiếu thứ ba và phối cảnh…
Người
thầy của tôi nhận chức giám đốc là thời kì kinh tế khó khăn nhất, các nước XHCN
đông Âu tan vỡ. Nguồn vật tư cho xe máy vùng
ấy cũng đứt hẳn. Hàng loạt toa xe chở than phải nằm chờ vì thiếu bạc
đồng. Công nghệ đúc hàng trăm năm chưa thay đổi, kĩ sư tại chức mới tốt nghiệp
chưa có kinh nghiệm, sai hỏng như cơm bữa.
Trưởng phòng Vật Tư, phòng Kế Hoạch đều là học
trò của thầy nay chỉ chăm chút vào hợp đồng nào có nhiều “phết phẩy” riêng tư…
Thời
kì này tôi đã được chuyển về quê sau hai mươi năm làm việc. - Tôi chỉ được nghe
kể lại- Tòa xử một vụ án kinh tế: Nhà máy hợp đồng với HTX tỉnh ngoài đúc bạc
đồng, cùng một khối lượng nguyên liệu, đúc ra thành phẩm được tỉ lệ cao hơn,
giá thành hạ hơn - rõ ràng là có lợi cho nhà nước. Nhưng HTX kia vẫn thừa
nguyên liệu bán ra ngoài biên giới thành to chuyện. Giám đốc chịu trách nhiệm
liên đới, một bản án kỉ luật không nặng lắm nhưng với thầy là một sự sỉ nhục,
một sai lầm mà thầy không thể tha thứ cho chính mình, có lẽ đó là lí do thầy
chuyển đến một nơi hẻo lánh, không muốn gặp người quen nên tôi tìm kiếm nhiều
lần mà không thấy.
Tôi
chợt nhớ, thầy có ham thích kì lạ về cách chơi hòn non bộ, gọt tỉa cây thế, cây
cảnh… tôi đã theo phụ thầy chiết cành, cấy ghép và chăm sóc cây các loại: Đinh
lăng cằn cỗi lâu năm trong chậu kê cao bộ rễ càng quý, chữa được nhiều bệnh;
cây sung thì cho rễ vượt ra ngoài chậu, bám sâu vào lòng đất để nó tự phát
triển lá non và quả, đó là thứ gia vị chát đắng thường xuyên cung cấp cho thầy
ăn với nem chua ở quê thường gửi cho thầy cùng li rượu cay vào buổi tối- Mới đó
mà đã mấy chục năm- Tôi nhớ ra, biết đến chỗ nào tìm được thầy.
Đoàn
xe tham quan chúng tôi đã đến bến phà Bãi Cháy. Bên kia là vùng than Quảng Ninh
đầy huyền thoại… Cái cầu dây văng khổng lồ đang hình thành cho mai sau.
Tôi nhảy xuống đường, gió lồng lộng
bay cả mũ. Xe chờ xuống phà xếp dài rồng rắn. Tôi cố tìm người quen, bạn cũ để
xin xuất ưu tiên xuống phà mà không gặp, đành đến ki ốt mua vé cho người và xe.
Tiền thừa tôi cho vào túi ngực cài cúc cẩn thận. Một tờ vé xanh, một tờ vé đỏ,
tôi cầm ở tay theo đoàn xe từ từ tiến đến bến phà.
Trong
người tôi nôn nao. Biết bao nhiêu câu hỏi dồn dập. Người thầy của tôi bây giờ
cuộc sống ra sao? Nếu thầy cứ dạy ở trường đó đến tuổi nghỉ hưu chắc ngày đó
đẹp lắm. Cơ man nào là học sinh của thầy thành đạt sẽ về thăm thầy với lòng
ngưỡng mộ, tôn kính biết bao. Không hiểu sao thầy lại trượt dài trên con đường
mà thầy không mong đợi? Tại sao thầy lại bị cuốn hút vào cơ chế thị trường xa
lạ mà thầy chỉ biết trên sách vở…
Gió
biển lồng lộng hào phóng mà người tôi túa đầy mồ hôi.Tôi theo xe bước qua cổng
sắt, giơ vé cho người kiểm soát thì ơi thôi. Như có phép lạ, hai chiếc vé trên
tay đã biến mất, ô tô đã lăn bánh xuống cầu phà, xe sau đã tiến sát, không thể
lùi được nữa. Tôi đứng ngây như trời trồng, không tin vào mắt mình, hai chiếc
vé chỉ còn lại một góc ướt sũng còn kẹp giữa hai ngón tay, phần còn lại chắc đã
bay theo gió xuống biển… Tôi không biết thanh minh thế nào với người soát vé…
Như
ông bụt hiện ra, anh bến trưởng đeo băng đỏ tiến đến khiêm tốn đến lạ lùng:
-Thầy
cứ cho xe xuống phà! Em đã thấy thầy mua vé rồi!
Thấy tôi sửng
sốt, anh bến trưởng nói nhanh:
-Em
là Tâm. Học sinh của Sở Giao thông gửi vào lớp của thầy khóa 80!
Tôi
ngước nhìn anh bến trưởng, rồi “à” lên một tiếng và nhận ra cậu học trò cần mẫn
chịu khó, nhưng học rất kém, làm mất điểm thi đua của lớp. Tôi phải vất vả dành
một kế hoạch riêng, dặm lại kiến thức hình học không gian, tìm hình chiếu thứ
ba, vẽ phối cảnh… cuối khóa trở thành học sinh khá của lớp. Mấy chục năm qua,
tôi quên bẵng, không ngờ hôm nay lại gặp trong tình huống này…
Phà
đã sang bến bên kia, tôi bàng hoàng như đây là sự may rủi thông thường, hay một
cái gì đó lớn hơn đáng phải suy ngẫm..
Tôi nhận rõ bổn
phận phải tìm bằng được người thầy, chia sẻ những gì thầy chịu đựng.
Hè
2005- 2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét