8 - SƠ TÁN
Lê Bá Hạnh
Cả thành phố trước kia đông đúc chật chội
thế, nay đã sơ tán, bỏ chạy hết…Cán bộ
tìm hang sâu ẩn nấp, dân cũng tản đi tứ phương. Nhà máy đã chuyển hết vào rừng,
một vài thiết bị đã hoạt động cầm chừng vì thiếu các đồ gá, các dụng cụ chuyên
dùng
Có lẽ chẳng ai muốn quay lại thành phố không
còn viên gạch nguyên vẹn này mà mấy thằng ngang bướng chúng tôi được đặc trách
quay về nhà máy đào bới trong đống gạch vụn tìm những thứ cần thiết ấy.
Ngày đầu chúng tôi chứng kiến những trận bom
bay tung hết mái tôn nhà xưởng, những xác người cháy đen thui lột hết quần áo
đang mặc, nghĩ cũng run sợ, sau quen dần khi nắm được quy luật của mỗi trận bom
đổ xuống. Chúng tôi về hầm trú trước khi máy bay tới. Khi tan hết bụi khói,
chúng tôi lại được vài giờ tìm kiếm rau xanh, nấu cơm ăn và tắm giặt… Tôi lại
thấy thoải mái hơn những ngày chui rúc trong rừng ẩm thấp và phải đi làm ở nhà
máy ồn ào hồi trước.
Xưa nay tôi chưa biết làm một việc nhỏ trong
nhà: Ngày đi học, các chị tranh nhau quét sân, nấu cơm rửa bát, mấy chị gái để
em trai vào bếp có mà mặt mo; khi lớn đi làm đã báo cơm ăn tập thể cái bát
không phải rửa; có gia đình, vợ lại cầu kì chỉ vừa ý khi chính tay mình nấu
nướng… Có lẽ bàn tay “chiêu” lóng ngóng của tôi đã làm ngứa mắt mọi người… Bây
giờ vợ con phải theo cơ quan đi sơ tán. Tôi phải sống tự lập, sau vài lần chậm chân chịu đói bụng, tự rút
kinh nghiệm, tôi trở thành anh nấu ăn cho mình khá hoàn hảo: Chọn một hõm đá
chất củi đốt cháy ầm ầm, gác chiếc cặp lồng nhôm ngang qua chỉ một lúc gạo sôi
ùng ục, đặt ngăn thức ăn chỉ có thìa mắm tôm, quả cà chua và một tí mỡ lợn, tất
cả chỉ mươi phút là chín, ăn chỉ năm
phút là xong. Chỉ ăn xong mới biết ngày đó được no, vì nhiều lần trông thấy bát cơm nhưng bom đạn đã
đè lấp.Giữa cái no và đói, cái sống chết đã bắt tôi tháo vát như vậy, bây giờ
bắt thao tác lại làm được chắc cũng khó…
Sau những bữa
cơm chiều, không gian yên tĩnh đến lạ lùng, chắc tụi giặc lái ngoài hạm đội Bẩy
giờ này cũng ngồi vào bàn tiệc hay khiêu vũ hoặc ngâm mình trong bồn tắm. Chúng
tôi kéo nhau ra ngoài hang trú ẩn đi dạo trên con đường ngổn ngang gạch ngói,
sắt thép và than gio… vượt bức tường rào đổ nát qua (dẫy nhà Tây) khu biêt thự xây
từ thời vua Nguyễn bán cả khu mỏ này cho người Pháp. Ông Chủ Nhất Chủ Nhì đã
xây lên, ngày nay là tư gia của lãnh đạo hàng Tỉnh, mái ngói xô, trần sụt, cửa
bật tung khỏi bản lề; của quý hiếm chắc không ai dư thừa để lại, chỉ trỏng trơ
mấy bộ sa lông rách vải, cái tủ quần áo trống không, nhưng tủ kính đựng sách
còn nguyên vẹn. Ngăn Lý luận Chính trị còn chặt cứng, ngăn Văn học trong nước
và nước ngoài - đã ngấm nước mưa bìa quyển này dính chặt vào quyển khác, tôi
mừng sáng mắt lên khi tìm được mấy cuốn tiểu thuyết chưa đọc vẫn nằm trong đó;
mấy ông bạn chẳng ham hố lắm cũng ôm về một tập để đầu giường thay gối. Hồi mới
vào học chúng tôi đã tổ chức ăn cắp sách ở thư viện, vì quyển sách hay đến mượn
đều được trả lời: hết; mà mắt vẫn còn nhìn thấy trên giá sách. Chúng tôi tự bào
chữa: “Ăn cắp sách không xấu – có ngu mới không biết giữ sách – Sách hay mà
mang trả lại ngu hơn – Ngôi nhà nằm trên đường chúng tôi đi và về nên tiện
đường lại ghé qua, có anh tìm được cuốn Từ Điển tiếng Nga in trên giấy mỏng y
như giấy cuộn thuốc lá, một thứ kham hiếm bậc nhất thời đó.
Ngôi biệt thự
nằm ngay trên sườn núi, phòng có tủ sách nhìn thẳng ra Vịnh Hạ Long thơ mộng,
dù mọi thứ đã tan hoang, nhưng sao quyến
rũ đến lạ lùng, có lẽ cái bức tường dày chắn nắng, cái hành lang rộng và nền
lát gạch hoa đẹp cầu kì bóng nhoáng; Chúng tôi chỉ dọn sạch vài mét vuông để
ngồi nghỉ hóng gió đã thấy đã thấy dễ chịu.
Cứ như thế
này mà không có bom đạn thì sướng biết bao. Tưởng như ngôi biệt thự này là
quyền sở hữu của riêng mình.
Chúng tôi ai
cũng có mấy miếng ván kê trong hang để ngủ, người nọ đạp lên đầu người kia vì
chật chội, bây giờ mỗi ngày lại ôm về một đống sách, sau một trận mưa chúng tôi
lại bê sách ra ngoài hang phơi nắng, vuốt lại những tờ quăn góc, xoa sạch những
cát bụi, dán lại gáy từng quyển đã bị ngấm nước bung hết tờ bìa. Đôi lúc vất vả
lắm mới tìm được đúng cái bìa của nó, dựng hàng loạt quyển sách ngắm nghía say
mê và chợt thấy mình may mắn trở thành giàu sang khi sở hữu một khối lượng sách
mà xưa nay chưa bao giờ dám nghĩ đến…
Hàng ngày
quay lại nhà máy đào móc những dụng cụ cần thiết, tôi luôn để mắt tìm những tấm
ván đóng hòm chứa sách, gom những dây điện, dây kẽm để chằng buộc; anh bạn bên
cạnh lại tìm dây thép nhỏ trong lõi dây điện thoại uốn làm lưỡi câu tôm, ngắm
nhìn thời tiết rồi nói nhỏ vào tai tôi: “Biển ngày này nhiều tôm lắm, câu tôm
rất dễ, chiều về tôi dạy!”
Buổi chiều ấy,
anh bạn kéo tôi xuống biển đi nhẹ nhàng dò từng bước thật yên tĩnh, nước trong
xanh mắt nhìn suốt tận đáy, nhìn rõ chân mình và những viên gạch đỏ đã tròn
nhẵn như viên đá cuội, nhìn kĩ sẽ thấy con tôm có mắt dài sáng long lanh, đưa
nhẹ nhàng lựa lưỡi câu vào con mắt ấy nhấc lên cho vào túi vải đã chuẩn bị. Lúc
đầu bỡ ngỡ bước bì bõm tôm chạy hết, sau phải học từng bước đi, cách lựa đưa
lưỡi câu rồi từ từ nhấc lên, chỉ mất mấy con tôm đầu tiên may mắn chạy thoát,
sau cứ đều đặn như đếm. Chẳng mấy chốc chúng tôi mỗi người được một túi đầy.
Chỗ tôm này ra chợ một ngày lương không mua được. Tôi kinh ngạc, thấy anh bạn
vuốt thẳng con tôm cho ráo nước, tay cầm đầu tôm đưa cả phần đuôi còn ngoe ngẩy
cho vào mồm nhai ngấu nghiến rồi chậm rãi dần như kéo dài cái giây phút kì lạ
ấy đến khi trên tay chỉ còn lại ít râu tôm, cái gai nhọn và đôi mắt. Tôi tròn
mắt kinh ngạc nhìn theo… Thấy không ngộ độc chết người, lại thấy hao háo như
khát nước, tôi cũng bắt chước, lần đầu tiên trong đời được nếm vị ngậy béo mát
lạnh của con tôm còn sống đang dẫy đành đạch. Nó càng ngon vì trong người chúng
tôi đã từ lâu thiếu chất hải sản tươi sống này.
Dù nó ở ngay trước
mặt hàng ngày vẫn không nhận thấy.
Bữa chiều ấy
chúng tôi như có đại tiệc: Tôm kho một nồi đầy để ăn dần, một ít băm nhỏ nấu
canh với mấy quả mướp hương, một bạn đã túm giật cả giàn mang về, một anh lớn
tuổi gọt quả mướp tiếc rẻ:
-
Quả mướp đang lớn này để dành tuần sau hãy ăn thì tốt!
- Liệu có
sống được qua ngày mai không mà để dành! Ông nên nhớ, tôi vơ quáng quàng chạy
kịp về đây là may mắn đấy, chậm chân một tí xác đã tung lên giàn mướp rồi!
Tình cảnh ấy
đã có nhiều, biết nguy hiểm nhưng vẫn phải làm, gần như đánh cược, năm ăn năm
thua với bom đạn. Đi làm về ai cũng tự giác tìm thêm rau xanh nấu nồi canh để
mọi người ăn chung, ai kiếm được rau gì ăn rau đấy. Từng người đều phải tự lo
cho mình món ăn khô, người cá ướp, cá khô, người mắm tép mắm tôm… tùy theo từng
nhà, gạo cũng vậy, mỗi người một túi, ai cũng vui vẻ chấp nhận như đã quá quen
ăn độn mì nhiều hơn gạo, nếu bắt ăn gạo trắng không chắc sẽ chê là nhạt nhẽo
không ngon. Cái thói quen của con người
cũng tạo thành cố tật đến kì dị.
Sau bữa ăn
rất ngon có những con tôm chính mình kiếm được, nhìn đống sách đồ sộ xếp ngay
ngắn trên giường, tôi thấy mình đã giàu sang hơn hết, đống sách này trước kia
tôi chưa bao giờ nghĩ đến, chỉ dám đi qua cửa hàng sách ngắm mê mải, hai ba
tháng cộng lại mới đủ tiền mua một cuốn mỏng, trước đó đọc lướt được vài cuốn
cho đỡ thèm, vài tháng nữa mới mua được.
Bây giờ đã sở hữu một đống sách đồ sộ, tôi có
thể ra bờ biển hét to lên: “Ta đã giàu lắm rồi!”.
Tiếng ai đó:
“Sống mãi thế này có khi dễ chịu, bây giờ nghĩ đến bước vào xưởng làm việc lại
chán”
Chiến tranh
phá hoại kết thúc, chiến tranh biên giới đi qua, đất nước bị cấm vận, xóa bỏ
chế độ tem phiếu bao cấp, cơ quan Thành Ủy cũng có phòng kinh tế để lo lương
cho lãnh đạo. Công nhân về chế độ “một cục” đủ tiền mua được cái xe xích lô
chuyên chở thuê hàng hóa…
Cũng may tôi
có được đống sách chiến lợi phẩm, ăn cắp của Thư viện và mua gom chục năm trời được một
giá sách đầy đặn, mở cửa hàng: “Cho thuê truyện – Bán sách báo” cứu đói cho cả
nhà.
Không phải
theo bạn dựng xích lô chở thuê hàng hóa. Học lại từ đầu mánh khóe lừa lọc gian
dối và đao búa (Nghề này không thế không được) Theo nghề đó có lẽ tôi đã nát
xương lâu rồi…
LBH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét